cú sốc thời gian và kinh tế việt nam

Khi luận về cách ăn mặc và lối sống người Việt giai đoạn thập niên 50 - 70, không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng phủ trùm của văn hoá phương tây lên nhiều tầng lớp và thế hệ Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Thị thành hoá, cơ cấu kinh tế, bối cảnh chính sự phức tạp và sự pha trộn văn hoá đã tạo nên những luồng tác động khác nhau. Những quả đào tiên hàng vạn năm tuổi mới kết trái sai trĩu quả, to khổng lồ. Chắc hẳn, nhiều khán giả tò mò muốn biết sự thật về vườn đào tiên đã được bà "phù thủy" họ Dương tài năng tạo ra như thế nào. Trong nguyên tác chương 5 - Phá vườn đào, Ðại Thánh Trong các nền kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản lý và điều hoà phúc lợi. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song sự điều tiết của Nhà nước vẫn là một trong các hoạt động của nền kinh tế thị Culture shock, hay Sốc Văn hóa, là triệu chứng 1 tín đồ cảm giác choáng ngợp, bối rối, lo ngại, hoảng loạn lúc nên tiếp xúc với môi trường xung quanh, thôn hội cùng văn hóa khác hoàn toàn so với cuộc sống thường ngày thân quen thường nhật. Khái niệm này được đưa ra thứ nhất bởi đơn vị Nhân nhiều loại học người Mỹ Kalervo Oberg năm 1954. Do cú sốc kinh tế lần này xuất phát từ dịch bệnh Covid-19 mà không phải xuất phát từ khủng hoảng kinh tế - tài chính, nên về phương diện lý luận cũng như thực tiễn thì để xử lý triệt để thì các giải pháp chuyên môn về y tế vẫn mang tính chất quyết định và chủ yếu, còn chính sách kinh tế vĩ mô là các công cụ mang tính hỗ trợ. Single Wohnung Waidhofen An Der Ybbs. Cú sốc kinh tế là sự “mất mát” có nguyên nhân chủ quan, nhưng phủ nhận và hơn thế là ngộ nhận về năng lực làm nảy sinh sự nóng vội tăng trưởng. Trước hết, cú sốc kinh tế ở Việt Nam vừa xảy ra là khá nghiêm trọng. Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu tổng sản phẩm trong nước GDP chín tháng đầu năm 2021 ước tăng 1,42%, trong đó GDP quý ba ước giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất từ những năm đầu Đổi mới đến nay. Sự suy giảm sâu nhanh chóng khiến nhiều người “bất ngờ”, nghĩa là trái với những hình dung, suy luận, dự đoán chủ quan của nhiều người, tạo ra cú sốc mạnh về kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cho năm 2021 là 6,5-7%. Ngân hàng Thế giới WB vào đầu tháng 9 đánh giá tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do tác động của dịch, nhưng năng lực vẫn vững, nên vẫn dự báo tỷ lệ GDP Việt Nam năm 2021 là 4,8%, tuy nhiên vào tuần đầu tháng 10 đã hạ dự báo tăng trưởng GDP xuống 2-2,5%. Ngoài chỉ tiêu GDP, sự sụt giảm diễn ra từ cả hai phía cung và cầu, tổng mức bán lẻ hàng hoá và tiêu dùng sụt giảm mạnh đồng thời với việc giảm sâu chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp, trong đó ngành chế biến vốn “dẫn dắt” tăng trưởng giảm mạnh nhất. Các chuyên gia trong nước đưa ra nhận định rằng các trụ cột tăng trưởng đang “lung lay”. Xuất khẩu đã giảm nhanh do tác động của giãn cách xã hội kéo dài tại trung tâm kinh tế phía Nam, cán cân thương mại thâm hụt. Đầu tư công bị “ách tắc” không thể giải ngân vì nhiều lý do hơn là đổ tại cho dịch… Cú sốc kinh tế đã khiến sức chống chịu của nền kinh tế đã tới hạn. Gần bốn tháng phong toả nghiêm ngặt thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận đã gây ra sự “tổn thương tới ngưỡng chịu đựng của nền kinh tế” – như thừa nhận của Bí thư Thành uỷ Nguyễn Văn Nên trong cuộc họp với các chuyên gia kinh tế và y tế ngày 17/9. Trước hết, nhiều doanh nghiệp đã kiệt quệ và đang trong tình trạng “ngắc ngoải”. Theo kết quả một cuộc khảo sát mới đây, gần 70% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh, tập trung nhiều nhất tại TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và phần lớn trong số đó không tiên liệu được sẽ phải đóng cửa trong bao lâu. Còn theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến cuối tháng 9/2021, có doanh nghiệp thành lập mới nhưng có tới doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 24,2% so cùng kỳ năm trước, và trong đó hơn 50% là tạm ngừng kinh doanh, còn lại đang làm thủ tục giải thể hoặc đã hoàn thành thủ tục phá sản. Đối với khu vực doanh nghiệp FDI, một trong những động lực tăng trưởng chính của Việt Nam, sự đứt gãy chuỗi cung ứng và đình trệ sản xuất kéo dài này cũng đang gây ra quan ngại lớn. Theo báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh vừa được EuroCham Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam thực hiện, niềm tin của các lãnh đạo doanh nghiệp về triển vọng kinh doanh tại Việt Nam đã rớt xuống mức thấp nhất kể từ năm 2010, 18% trong tổng số 193 công ty được khảo sát cho biết đã chuyển dịch một phần đơn hàng hoặc nhu cầu sản xuất sang các nước khác, trong khi 16% doanh nghiệp cũng đang cân nhắc về điều này. Hình minh hoạ công nhân làm việc trong nhà máy sau khi lệnh phong toả được dỡ bỏ ở Hà Nội hôm 1/10/2021. Reuters Ngoài ra, thị trường lao động đang bị rối loạn, tỷ lệ thất nghiệp cao, đời sống người lao động, đặc biệt số lao động buộc phải về quê, rất khó khăn, tỷ lệ nghèo tạm thời đã tăng lên từ 10% ở điều kiện bình thường đã lên hơn 33%, và có thể còn tiếp tục tăng theo nhận định của các chuyên gia từ số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, gần 19 triệu người giảm thu nhập, rối loạn dịch chuyển lao động làm đảo lộn sinh hoạt dân cư… Sau nữa, đến nay phí tổn ngân sách chống dịch đã gần 30,5 nghìn tỷ, trong đó tỷ lệ khá cao dành cho lực lượng vũ trang tham gia, và nếu kể cả tiền hỗ trợ người dân và doanh nghiệp từ các nguồn khác nhau tổng chi phí ước tính là 6-7 tỷ đô la. Khi nguồn lực quốc gia bị bào mòn, xuất hiện rủi ro cho cân đối kinh tế, nguy cơ lạm phát, đe doạ bất ổn xã hội… Tất nhiên, sự phủ nhận có nguyên nhân chủ quan và, hơn thế, là ngộ nhận về năng lực điều hành kinh tế có thể làm nảy sinh sự nóng vội tăng trưởng. Cú sốc kinh tế ở Việt Nam cũng liên quan trực tiếp đến đến đại dịch COVID-19, nhưng nó “khác thường”, khác với nhiều nước nó “đến muộn” hơn về thời điểm và có nguyên nhân chống dịch chủ quan, lúng túng. Đối với toàn nhân loại đại dịch này là “chưa từng xảy ra”, “đột ngột” và “nguy hiểm”. Nó đã khởi phát từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối năm 2019 và lan rộng ra toàn thế giới với mức độ khác nhau. Là “cái nôi” của dịch, cách phong toả khắc nghiệt hơn 11 triệu dân ở Vũ Hán và các vùng lân cận của tỉnh Hồ Bắc, dù kìm chế được sự lan rộng, nhưng đã để lại bài học chuyên chế gây tranh cãi và mang tính ý thức hệ. Sự lây lan dịch bệnh từ Trung Quốc sang Mỹ và các nước phương Tây, đặc biệt ở châu Âu diễn ra nhanh chóng do các mối liên hệ rộng mở kinh tế, việc làm, du lịch trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tuy nhiên, cách tiếp cận chống dịch của các thể chế dân chủ dựa trên tôn trọng tự do cá nhân, cũng không hẳn là “tối ưu” đối với COVID-19 khi chưa có vắc-xin phòng ngừa. Các quốc gia đã phải chịu cú sốc về y tế và kinh tế ngay trong năm 2020, có nước chứng kiến sự sụt giảm tỷ lệ GDP lên tới hai con số, nhưng đã không mắc vào cái bẫy “Zero COVID”, đã dần trở lại trạng thái bình thường mới khi có vắc-xin và độ bao phủ cao cần thiết. Chính phủ Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều về cách tiếp cận “Trung Quốc”, đã chống dịch thành công trong ba đợt dịch đầu trong hơn một năm kể từ đầu năm 2020, nhưng đã chủ quan dẫn đến chính sách đối phó lúng túng vì thiếu nguồn lực và phương tiện y tế khi đợt dịch thứ tư bùng phát dữ dội tại vùng trung tâm kinh tế cả nước, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, từ khoảng giữa năm 2021 đến nay. Sự cộng hưởng với sốc đại dịch khiến cho cú sốc kinh tế trở nên “khác thường” hơn. Phong toả nghiêm ngặt, kéo dài khi chiến lược vắc-xin chậm, bị động và năng lực xét nghiệm vi rút yếu kém; thế mạnh của cơ chế tập trung quyền lực về huy động lực lượng trong tình huống cấp bách không phát huy được; rối loạn chức năng điều hành và phối hợp giữa chính quyền trung ương và địa phương; năng lực cán bộ lãnh đạo bộc lộ hạn chế và né tránh trách nhiệm… Tất cả yếu tố “khác thường” làm tê liệt kinh tế ở vùng trung tâm dịch, gây nên cú sốc kinh tế Việt Nam. Sức ép từ cú sốc kinh tế nghiêm trọng đã biến chiến lược “Zero COVID” của Việt Nam thành ảo tưởng và mục tiêu kép đã chỉ là khẩu hiệu. Các Chỉ thị 15, 16 và 19 của Chính phủ về phòng chống dịch trước đây được thay thế bởi Nghị quyết 128, trong đó quy định bốn cấp độ nguy hiểm với các tiêu chí cụ thể hơn để vận dụng. Tuy nhiên, chung sống với đại dịch thế nào vẫn là thách thức, sức ép từ cú sốc kinh tế, tình trạng “trên bảo dưới chưa nghe”, lao động thiếu và bất an trong bối cảnh tỷ lệ bao phủ vắc-xin thấp, không đồng đều... Cú sốc kinh tế hiện nay ở Việt Nam có ý nghĩa cho việc điều hành của chính quyền hơn là để cho tâm lý nóng vội phục hồi vì lý do tăng trưởng để thể hiện năng lực ngộ nhận. Kinh tế không thể bật dậy ngay sau cú sốc do những mất mát và tổn thương không chỉ về kinh tế mà cả xã hội. Trước mắt phải là ưu tiên nhiệm vụ ổn định cuộc sống người dân và doanh nghiệp, an cư lâu dài, sau là những chính sách phục hồi đi đôi với cải cách thể chế. Tâm lý nóng vội tăng trưởng, vì vậy, cần được cảnh báo để Chính phủ tránh hơn là bị cuốn theo, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới còn khó khăn và diễn biến dịch bệnh COVID-19 còn phức tạp. * Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do. Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam Cuốn sách này ra đời nhân dịp Việt Nam kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh và gần 30 năm từ khi có Đổi mới. Đánh giá thành quả phát triển trong 40 năm qua, phân tích những thách thức hiện nay và đề khởi đổi mới tư duy và chiến lược cho giai đoạn mới là ba phần chính của cuốn sách. Ngoài ra có chín phụ trang về các vấn đề văn hóa, giáo dục, lịch sử, những khía cạnh có liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của nền kinh tế. Nhiều nội dung trong cuốn sách là những bài viết đã đăng trên các báo ở trong và ngoài nước trong vài năm qua, trong đó nhiều nhất là những bài trên Thời báo kinh tế Saigon. Phần lớn nội dung của Lời nói đầu này cũng đã đăng trên số báo Tết Bính Thân phát hành giữa tháng 1/2016 của tạp chí này. Ngoài ra, Vietnamnet, Tuổi Trẻ, Doanh nhân Saigon cuối tuần, Diễn Đàn, Thời đại mới, Đà Nẵng, cũng là xuất xứ của nhiều chương và phụ trang trong sách này. Tuy dùng nhiều bài đã đăng nhưng lần này tác giả đã bổ sung, làm mới tư liệu và sửa chữa những chỗ chưa chính xác. Tác giả cảm ơn ban biên tập các báo nói trên. Việc soạn thảo, chỉnh lí nội dung cuốn sách vào giai đoạn cuối thì tác giả có dịp tham gia dự án Báo cáo Việt Nam 2035 do Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thực hiện và đóng góp bài viết “Việt Nam cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển Đánh giá 30 năm đổi mới và nhìn về tương lai”. Tác giả cảm ơn chị Phạm Chi Lan, một trong những chuyên gia phụ trách dự án nói trên, đã có nhã ý yêu cầu tham gia nên tác giả có dịp tổng kết các suy nghĩ về chủ đề chính trong sách này. Ngoài ra, trong mấy năm qua, qua các hội thảo hoặc qua trao đổi riêng, tác giả nhận được rất nhiều ý kiến, nhiều tư liệu và thông tin bổ ích hoặc những khuyến khích quý giá trong quá trình hình thành ý tưởng và phân tích cho nội dung cuốn sách. Không thể kể hết, nhưng có dịp trao đổi nhiều nhất là những anh chị Lê Đăng Doanh, Trần Hữu Dũng, Phan Chánh Dưỡng, Chu Hảo, Phạm Chi Lan, Trần Đức Nguyên, Huỳnh Bửu Sơn, Võ Trí Thành, Trần Đình Thiên, Trần Trọng Thức, Hà Dương Tường, và Vũ Quang sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng..... CÚ SỐC THỜI GIAN và KINH TẾ VIỆT NAM của giáo sư Trần Văn Thọ được giải thưởng Phan Châu Trinh xuất bản vào năm 2016 và vẫn đầy tính thời sự, gồm 3 Phần 16 chương và 1 phụ trang được sắp xếp một cách khoa học nhằm làm rõ vị trí và quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong 40 năm qua 1975 đến 2015 và những câu chuyện về các con hổ, con rồng Châu Á láng giềng với quy mô dân số và thị trường từ trung bình tới lớn từ Hàn Quốc tới Trung Quốc đã tiến hành cải cách và đi lên ra sao cũng như từ đó nhìn ra bài học dành cho Việt Nam. Cú sốc thời gianMột số bài học cho Việt NamKết Cú sốc thời gian Cuốn sách khiến mình nhớ khoảng chừng những năm 2008 – 2010 khi trên khắp các diễn đàn báo chí về kinh tế, nhiều loạt bài mở lên tranh luận sôi nổi về con đường của chúng ta “Đông Á hay Đông Nam Á”. Và các tác giả quả quyết Việt Nam chúng ta phải chọn Nhật, Hàn, Trung làm thước đo mà tiến, đừng để lâu thành trì trệ như Malaysia, Philippines… Cuốn sách với tựa đề nhấn mạnh “cú sốc thời gian” thể hiện sự lo lắng cũng như sốt sắng của Giáo sư về tốc độ cũng như chất lượng phát triển của Việt Nam khi năm tháng ngày một trôi qua, bạn bè từng đồng trang lứa thì chạy như bay trên những cao tốc sáng đèn phăm phăm về đích, còn mình vẫn là anh học trò được tiếng thông minh nhưng thích mò mẫm trên đường làng quanh co và tối tăm mặt mũi. Cú sốc thời gian chúng ta có thể nhìn rõ trong ví dụ về Philippines, vào năm 1960 quốc đảo này có thu nhập cao hơn Thái Lan lần, Hàn Quốc lần, đến năm 1976 bước vào hàng ngũ thu nhập trung bình thấp và sau hơn 40 năm vẫn nằm ở mức đó, số liệu mới nhất cho thấy GDP bình quân đầu người của Philippines chưa bằng ½ Thái Lan và cao hơn… 1/10 của Hàn Quốc một ít. 60 năm nhìn lại đối với họ thật kinh khủng. Ở một chiều hướng ngược lại, Nhật năm 1945 còn bị ảnh hưởng kinh hoàng bởi thế chiến, đến năm 1952 vẫn đang có thu nhập trung bình thấp, đến năm 1956 đã cơ bản hồi phục lại mức phát triển trước chiến tranh và từ năm 1955 – 1973 18 năm là quá trình phát triển thần kì với tốc độ bình quân hằng năm trên 10% và đưa Nhật bản lên thẳng vào top các cường quốc phát triển, vượt Anh, Pháp, Đức. Như vậy tổng thời gian kể từ kết thúc chiến tranh tới lúc vươn mình thành cường quốc số 2 thế giới, Nhật Bản mất 28 năm! Tất nhiên phải nhìn nhận Nhật Bản đã có sẵn nền tảng về thể chế và con người từ lần cải cách Minh Trị Duy Tân 100 năm trước. Đáng chú ý hơn là người hàng xóm của Nhật Bản với lòng tự tôn dân tộc cao ngút trời Hàn Quốc. Hàn Quốc kết thúc chiến tranh Triều Tiên với nền kinh tế rệu rã vào năm 1953, bắt đầu kế hoạch cải cách vào năm 1961 và được kết nạp vào nhóm OECD – nhóm những nền kinh tế phát triển nhất thế giới – vào năm 1996, 43 năm từ ngày kết thúc chiến tranh và 35 năm từ lúc cải cách. Thật đáng ngưỡng mộ! 35 năm chính xác là quãng thời gian kể từ Đổi mới năm 1986 tại Việt Nam cho đến hiện tại. Đến nay đã hơn 50 năm trôi qua kể từ ngày thống nhất đất nước và tất nhiên chúng ta đã ghi nhận được những thành tích phát triển nhất định, thoát khỏi đói nghèo, gia nhập hàng ngũ những quốc gia có thu nhập trung bình, tiến sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, điểm sáng trong thu hút FDI, đặc biệt sau màn điều chỉnh lại quy mô nền kinh tế năm 2020 thì chúng ta chính thức đứng thứ 4 ASEAN về quy mô, còn GDP đầu người thì vượt luôn Philippines Điều chỉnh theo cách tính của IMF, còn World Bank thì vẫn dùng số liệu “cũ” nên Việt Nam còn kém Phil . Tất nhiên nếu xét về mục tiêu đến năm 2020 – tức là sau 35 năm đổi mới – cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại như đại hội X nêu ra thì đã không đạt được – cũng được tác giả cũng như nhiều chuyên gia đã có dự báo từ trước. Theo tác giả, Việt Nam đang trải qua thời kỳ dân số vàng là thời điểm tuyệt vời nhất để trở mình tiến tới, tuy nhiên càng tiến về cuối thời kỳ này, chúng ta lại càng nhận ra Việt Nam có nguy cơ đang tiến tới vũng lầy bẫy thu nhập trung bình nếu không có những thay đổi quyết liệt. Một số bài học cho Việt Nam Có rất nhiều yếu tố để một quốc gia chuyển mình mạnh mẽ như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Trung Quốc nhưng mình rút ra một số bài học như sau Lãnh đạo có khát vọng và thực sự sống với khát vọng đó Giống như chúng ta hay nói đến lãnh đạo có tâm và tầm. Ông Ikeda Hayato là kiến trúc sư của quá trình cải cách và phát triển thần kì sau hậu chiến của Nhật Bản với kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân – tức là tăng gấp đôi thu nhập người dân trong vòng 10 năm nhưng đã sớm bị vỡ kế hoạch khi… chỉ cần 7 năm. Vào năm 1950 ông dẫn phái đoàn bộ tài chính công du qua Mỹ chỉ thuê khách sạn ba sao và hai, ba người gồm ông là đương kim Bộ trưởng ở chung phòng, sáng họp, tối tập trung tại phòng ông để bàn nội dung làm việc. Khách sạn nhỏ, phòng không có bàn và phải ngồi bệt trên sàn. Tại sao phải khổ vậy, vì họ muốn tiết kiệm tối đa ngoại tệ cho việc nhập nguyên liệu phục vụ quá trình phát triển và đầu tư để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, không lãng phí vào các khoản chi không thực sự cần thiết. Lãnh đạo có khát vọng như ngọn đuốc, không phải là ngọn đuốc toàn năng soi sáng con đường, mà là ngọn đuốc say mê tập hợp nguồn lực quốc gia đặc biệt là lực lượng trí thức cùng tề tựu và đưa ra các sách lược phát triển đất nước. Chính với khát vọng phát triển nền kinh tế nước Nhật hậu chiến, Ông Yahato đã lập 1 nhóm 7 người bao gồm các trí thức và các quan chức chủ chốt để vạch ra kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân nhằm tranh cử chức Thủ tướng. Hay giờ đây ai cũng biết xe hơi Nhật Bản nhưng 60 năm về trước khi một số quan chức bộ Công thương Nhật Bản muốn thực hiện tham vọng sản xuất ô tô thì đã gặp quá nhiều trở lực. Họ đọc được bài báo của giáo sư Shinohara về lợi thế so sánh động, như vớ được phao cứu sinh, họ vội liên lạc để tìm hiểu thêm về con đường phát triển ngành công nghiệp ô tô. Giáo sư nhớ lại đêm đó 3, 4 người từ bộ Công thương qua trao đổi liên tục, đến tận khuya vẫn không dứt chuyện và họ chỉ rời nhà khi đồng hồ đã điểm 5 giờ sáng.. Hay tại Hàn Quốc Park Chung-hee lên nắm quyền và đã thành lập Hội đồng hoạch định kinh tế quy tụ những chuyên gia học ở Mỹ và những vị này được giao toàn quyền hoạch định chiến lược để phát triển nền kinh tế Quốc gia. Ông Tổng thống hoàn toàn bám sát các hoạch định để thực hiện các chỉ đạo và cơ chế để đảm bảo thực hiện chính sách thành công. Tại Việt Nam một thời trí thức cũng sôi nổi xung quanh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt – người chỉ ra nguy cơ lớn nhất của Việt Nam là “tụt hậu” nhưng rồi ông cũng không thay đổi được nhiều phe bảo thủ chỉ lo quốc gia bị “chệch hướng chủ nghĩa xã hội” nên để lỡ nhiều cơ hội vào cuối những năm 90. Khả năng lên kế hoạch Điều này thể hiện rõ trong chiến lược các ngành. Chúng ta đã có mục tiêu đưa nước nhà công nghiệp hóa hiện đại hóa vào năm 2020 nhưng từ văn kiện đại hội Đảng ra đến chiến lược thực hiện có vẻ không có sự đồng nhất nếu không muốn nói là bị bỏ hoang nhiều năm, dẫn tới hậu quả là “nghị quyết vẫn còn nguyên giá trị” ai muốn giải trí thêm có thể đọc bài này của anh Dương Ngọc Thái nghị quyết vẫn còn nguyên giá trị vì Chính phủ không thực hiện. Cũng là định hướng về công nghiệp hiện đại, hãy xem cách làm của Nhật Bản 60 năm về trước Họ vạch ra chiến lược thay đổi cơ cấu công nghiệp chuyển đổi từ các ngành thâm dụng lao động như dệt may, tơ sợi… sang các ngành có hàm lượng tư bản và công nghệ cao như thép, hóa dầu, xe hơi… Các ngành cụ thể được lựa chọn thì có các công cụ chính sách là các kế hoạch, luật hoặc pháp lệnh lâm thời có hiệu lực trong thời gian ngắn như Chính sách nuôi dưỡng ngành hóa dầu 1955, Luật lâm thời chấn hưng công nghiệp máy móc 1956, Công nghiệp điện tử 1957 hay luật về phát triển các ngành cơ khí 1957 để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Và sau đó là các chinh sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận công nghệ vốn, lập quỹ cho vay 1953. Còn Việt Nam thì sau khi đề ra mục tiêu công nghiệp hóa, thời gian đầu không có chiến lược rõ ràng đến những năm 2000 chúng ta đã đưa ra quá nhiều chiến lược ngành, tạo nên một nền kinh tế được gọi là “quả mít” vì quá nhiều mũi nhọn, chả biết đâu là mũi nhọn cần lưu tâm để tạo đột phá. Phát triển đang theo hướng dàn hàng ngang, ở đâu cũng muốn làm cảng, ở đâu cũng muốn xây sân bay, ở đâu cũng muốn được đổ vốn về nhiều để xây dựng cơ sở hạ tầng và phải tới gần đây khi dư luận quá xôn xao về vấn đề giữ lại ngân sách cho thì Thủ tướng đã chịu chủ trương nâng mức giữ lại cho đầu tàu kinh tế này. Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách và Quản lý Đại học Fulbright, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng đánh giá, mặc dù Đông Nam Bộ đóng góp 45% GDP nhưng đầu tư cho vùng chỉ chiếm khoảng 18,5% tổng vốn đầu tư cả nước, hoàn toàn không tương xứng với những đóng góp to lớn của vùng. “Riêng TP HCM, từ 1/1/2017, tỷ lệ thu ngân sách được giữ lại đã giảm mạnh từ 23% xuống chỉ còn 18%“, ông Anh chia sẻ. Quyết liệt trong hành động Khi so sánh tại sao Trung Quốc cùng 1 thể chế với Việt Nam lại đạt được những thành tựu phát triển kinh tế đáng kinh ngạc, tác giả nêu ra nhiều điểm nhưng mình nhớ nhất lại là sự quyết liệt trong hành động của chính quyền trung ương cũng như địa phương – “bias for action”. Họ thực hiện mọi thứ rất quyết liệt, sau khi có mục tiêu rõ ràng họ triển khai rất nhanh, thành lập các đặc khu kinh tế tại Phúc Kiến, Quảng Đông và thu hút rầm rộ các Hoa kiều có lòng nhớ cố quốc hồi hương về đầu tư trong những năm 80. Theo tác giả “cơn sốt Việt Nam” lên cao tại Nhật từ năm 1993 và rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản rất muốn tìm cơ hội tại Việt Nam, tuy nhiên lúc đó chúng ta còn loay hoay trong việc thu hút vốn đầu tư với tâm lý sợ sệt và thực hiện quá nhiều hành vi phân biệt đối xử nội ngoại trong khi Trung Quốc thì rồng rắn gửi chuyên gia qua Nhật Bản học tập, mời mọc họ qua đầu tư và chuyển giao công nghệ… “cơn sốt Việt Nam” tại xứ sở Phù Tang kéo dài đến năm 1996 thì gần như nguội hẳn khi các doanh nghiệp Nhật Bản đã yên ổn với vùng đất mới ở phía Đông Nam Trung Hoa. Nhân nói về quyết liệt trong hành động, hãy đọc Tiểu sử Steve Jobs để xem người lãnh đạo thành công phải biết “biến ước mơ thành hiện thực” ra sao Kết Trong sách còn đề cập đến nhiều vấn đề về mô hình phát triển của Việt Nam và các phương cách tác giả đề ra để Việt Nam có thể nhanh chóng nắm lấy thời cơ để tăng tốc nền kinh tế. Ví như bài toán FDI, những năm 1990 chúng ta quá quan ngại trước vốn đầu tư nước ngoài nên tạo ra quá nhiều hạn chế cho môi trường đầu tư, sau khi hội nhập WTO thì lại mở cửa quá thoáng, các địa phương tranh nhau thu hút vốn đầu tư mà không có kế hoạch đánh giá và thẩm định rõ ràng để tạo nên tác động cộng hưởng cho nền kinh tế, đáp ứng cho chiến lược công nghiệp hóa. Dẫn tới thu hút nhiều ngành không đáng mà tư bản trong nước có thể liên doanh hoặc tự phát triển như giày da hoặc may mặc… Tác giả nhấn mạnh nhiều lần vào vấn đề đầu tư cho giáo dục và công nghệ để chuẩn bị sẵn nguồn nhân lực có trình độ để nền kinh tế sẵn sàng chuyển mình vào những ngành có hàm lượng tri thức cao hơn. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là cải cách thể chế tạo điều kiện cho kinh tế tư nhất phát triển và nuôi dưỡng tư bản dân tộc. Một dân tộc có sự thống nhất cao về mặt văn hóa và có quy mô dân số đứng thứ 14 thế giới không thể chịu chấp nhận một vị trí khiêm tốn như hiện nay. Nhiều câu hỏi đặt ra về cách sử dụng và phân bổ nguồn vốn của nhà nước, đặc biệt là vốn vay ODA, khi mỗi người dân Việt Nam đang bình quân gánh 40 USD tiền ODA nhưng hiệu quả sử dụng kém, hay các chi phí ngoài sổ sách kèm thủ tục hành chính và thuế má nhiêu khê đã cản trở sự phát triển của tư bản dân tộc. Cuốn sách như chứa đựng những tâm huyết và gan ruột của Tác giả, một người Việt thành danh tại nước ngoài, mong mỏi đóng góp công sức cho quá trình phát triển của Việt Nam. Hi vọng rằng những ý kiến đóng góp hợp tình hợp lý của tác giả sẽ được tiếp thu và triển khai một cách quyết liệt trong kế hoạch phát triển những năm tới đây để Việt Nam có thể nhanh chóng vươn mình thành con rồng mới của Á Châu như truyền thông thế giới đã mong chờ từ hơn 30 năm trước. Các bạn có thể cùng thảo luận về cuốn sách tại page Đọc sách cùng Vũ cusocthoigianvakinhtevietnamtranvantho Tags cú sốc thời gian và kinh tế việt nam ebook pdf nxb tri thức 2018 trần văn thọ Hỗ Trợ Diễn Đàn Staff Member Quản Trị Viên Cuốn sách Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam ra đời nhân dịp Việt Nam kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh và gần 30 năm từ khi có Đổi mới. Sách đánh giá thành quả phát triển trong 40 năm qua, phân tích những thách thức hiện nay và đề khởi đổi mới tư duy và chiến lược cho giai đoạn mới là ba phần chính của cuốn sách. Ngoài ra có chín phụ trang về các vấn đề văn hóa, giáo dục, lịch sử, những khía cạnh có liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của nền kinh tế. Nhiều nội dung trong cuốn sách là những bài viết đã đăng trên các báo ở trong và ngoài nước trong vài năm qua, trong đó nhiều nhất là những bài trên Thời báo kinh tế Saigon. Phần lớn nội dung của Lời nói đầu này cũng đã đăng trên số báo Tết Bính Thân phát hành giữa tháng 1/2016 của tạp chí này. Ngoài ra, Vietnamnet, Tuổi Trẻ, Doanh nhân Saigon cuối tuần, Diễn Đàn, Thời đại mới, Đà Nẵng, cũng là xuất xứ của nhiều chương và phụ trang trong sách này. Tuy dùng nhiều bài đã đăng nhưng lần này tác giả đã bổ sung, làm mới tư liệu và sửa chữa những chỗ chưa chính xác. Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam NXB Tri Thức 2018 Trần Văn Thọ 237 Trang PDF-SCAN Link download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh 110 Bài Tập Kinh Tế Vĩ Mô NXB Thống Kê 2003 - Vũ Thị Minh Phương, 131 Trang18/07/2015 Làn Sóng Thứ Ba NXB Thanh Niên 2002 - Alvin Toffler, 365 Trang10/03/2015 Lịch Sử Tư Tưởng Kinh Tế Tập 1-Các Nhà Sáng Lập NXB Khoa Học Xã Hội 1996 - Maurice Basle18/04/2017 Phát Triển Kinh Tế-Lịch Sử Và Lý Thuyết NXB Chính Trị 1993 - Lê Cao Đoàn, 140 Trang14/04/2022 500 Câu Hỏi Trắc Nghiệm Kinh Tế Học Vi Mô NXB Giáo Dục 2008 - Ts. Tạ Đức Khánh, 212 Trang02/01/2014 Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Trong Thời Kỳ Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa20/04/2022 Việt Nam Sau 30 Năm Đổi Mới-Thành Tựu Và Triển Vọng NXB Hồng Đức 2017 - Phạm Quang Minh, 260 Trang29/05/2019 Kế Hoạch Hóa Kinh Tế Vĩ Mô NXB Chính Trị 2000 - Đặng Đức Đạm, 352 Trang22/04/2022 Việt Nam Sau Một Năm Gia Nhập WTO Tăng Trưởng Và Việc Làm NXB Chính Trị 2009 - Jean-Piere Cling15/09/2022 Kinh Tế Vĩ Mô NXB Tổng Hợp 2009 - Robert C. Guell, 256 Trang24/11/2015 Biến Động NXB Dân Trí 2020 - Jared M. Diamond, 574 Trang14/06/2017 Đánh Giá Giá Trị Doanh Nghiệp NXB Tổng Hợp 1996 - Đỗ Văn Thận, 135 Trang27/04/2022 Nóng, Phẳng, Chật NXB Trẻ 2009 - Thomas L. Friedman, 580 Trang10/06/2013 Giáo Trình Kinh Tế Môi Trường NXB Giáo Dục 2006 - Hoàng Xuân Cơ, 251 Trang22/07/2015 Tái Cấu Trúc Kinh Tế Vùng Nam Trung Bộ Nhằm Phát Triển Bền Vững - Bùi Đức Hùng, 460 Trang30/04/2022 Share This Page Forums Forums Members Members Menu Giới thiệu sách Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt NamCuốn sách này ra đời nhân dịp Việt Nam kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh và gần 30 năm từ khi có Đổi mới. Đánh giá thành quả phát triển trong 40 năm qua, phân tích những thách thức hiện nay và đề khởi đổi mới tư duy và chiến lược cho giai đoạn mới là ba phần chính của cuốn sách. Ngoài ra có chín phụ trang về các vấn đề văn hóa, giáo dục, lịch sử, những khía cạnh có liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của nền kinh tế. Nhiều nội dung trong cuốn sách là những bài viết đã đăng trên các báo ở trong và ngoài nước trong vài năm qua, trong đó nhiều nhất là những bài trên Thời báo kinh tế Saigon. Phần lớn nội dung của Lời nói đầu này cũng đã đăng trên số báo Tết Bính Thân phát hành giữa tháng 1/2016 của tạp chí này. Ngoài ra, Vietnamnet, Tuổi Trẻ, Doanh nhân Saigon cuối tuần, Diễn Đàn, Thời đại mới, Đà Nẵng, cũng là xuất xứ của nhiều chương và phụ trang trong sách này. Tuy dùng nhiều bài đã đăng nhưng lần này tác giả đã bổ sung, làm mới tư liệu và sửa chữa những chỗ chưa chính xác. Tác giả cảm ơn ban biên tập các báo nói trên. Việc soạn thảo, chỉnh lí nội dung cuốn sách vào giai đoạn cuối thì tác giả có dịp tham gia dự án Báo cáo Việt Nam 2035 do Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thực hiện và đóng góp bài viết “Việt Nam cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển Đánh giá 30 năm đổi mới và nhìn về tương lai”. Tác giả cảm ơn chị Phạm Chi Lan, một trong những chuyên gia phụ trách dự án nói trên, đã có nhã ý yêu cầu tham gia nên tác giả có dịp tổng kết các suy nghĩ về chủ đề chính trong sách này. Ngoài ra, trong mấy năm qua, qua các hội thảo hoặc qua trao đổi riêng, tác giả nhận được rất nhiều ý kiến, nhiều tư liệu và thông tin bổ ích hoặc những khuyến khích quý giá trong quá trình hình thành ý tưởng và phân tích cho nội dung cuốn sách. Không thể kể hết, nhưng có dịp trao đổi nhiều nhất là những anh chị Lê Đăng Doanh, Trần Hữu Dũng, Phan Chánh Dưỡng, Chu Hảo, Phạm Chi Lan, Trần Đức Nguyên, Huỳnh Bửu Sơn, Võ Trí Thành, Trần Đình Thiên, Trần Trọng Thức, Hà Dương Tường, và Vũ Quang tin tác giả GS. Trần Văn ThọGS. Trần Văn ThọSinh tại Quảng Nam. Ông là giáo sư danh dự, Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản. Trước đó ông từng là thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc; Từng tham gia tổ tư vấn cải cách kinh tế và hành chính của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cộng tác với ban nghiên cứu chính sách của Thủ tướng Phan Văn Khải. Giáo sư Trần Văn Thọ lấy bằng tiến sĩ kinh tế Đại học Hitotsubashi, Tokyo. Ông là một trong ba người nước ngoài đầu tiên được mời làm việc trong Hội đồng tư vấn kinh tế nhiều đời của Thủ tướng Nhật và làm cố vấn cho nhiều cơ quan của chính phủ Nhật Bản. Giáo sư Trần Văn Thọ là tác giả của một số tác phẩm xuất bản bằng tiếng Nhật và tiếng Việt về kinh tế châu Á, Nhật Bản và Việt Nam. Tác giả từng nhận giải Giải Châu Á Thái Bình Dương Nhật và hai cuốn được Giải Sách Hay Việt Nam.Sách Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam của tác giả GS. Trần Văn Thọ, có bán tại Nhà sách online NetaBooks với ưu đãi Bao sách miễn phí và Gian hàng NetaBooks tại Tiki với ưu đãi Bao sách miễn phí và tặng Bookmark Xem thêm ĐÁNH GIÁ CỦA ĐỘC GIẢ Hãy đánh giá Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam để giúp những độc giả khác lựa chọn được cuốn sách phù hợp nhất! Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam Giá bán tại NetaBooks ₫ ₫ Tiết kiệm ₫-20%

cú sốc thời gian và kinh tế việt nam